RSS

NHÀ THỜ ĐỨC BÀ – TP HCM

24 Th6

ducba 2

Vương cung Thánh đường Chánh tòa Đức Bà Sài Gòn (người dân quen gọi là Nhà thờ Đức Bà) tọa lạc giữa trung tâm thành phố (số 1 Công trường Công xã Paris, Quận 1). Đây là một trong những công trình đặc sắc thu hút nhiều khách tham quan nhất tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngôi giáo đường tráng lệ và cổ kính này không chỉ là một công trình tôn giáo mà còn là một kiến trúc mang nhiều giá trị văn hóa, lịch sử.

Ngay sau khi chiếm Sài Gòn, Pháp đã cho lập nhà thờ để làm nơi hành lễ cho tín đồ Thiên Chúa giáo trong đoàn quân viễn chinh. Ngôi nhà thờ đầu tiên được lập ở đường số 5 (nay là đường Ngô Đức Kế). Đây là một ngôi chùa của người Việt bị bỏ hoang do chiến cuộc, cố đạo Lefebvre đã biến ngôi chùa này thành nhà thờ.

Mặt sau nhà thờ đức bà

Mặt sau nhà thờ đức bà

Nhà thờ đầu tiên đó quá nhỏ nên vào năm 1863, Đô đốc Bonard đã quyết định cho khởi công xây dựng một thánh đường bằng gỗ bên bờ “Kinh Lớn” (còn gọi là kinh Charner, thời Việt Nam Cộng hòa là trụ sở Tòa Tạp tụng). Cố đạo Lefebvre đặt viên đá đầu tiên xây dựng nhà thờ vào ngày 28 tháng 3 năm 1863. Nhà thờ xây cất bằng gỗ, hoàn thành năm 1865, ban đầu gọi là Nhà thờ Saigon. Về sau, do nhà thờ gỗ này bị hư hại nhiều vì mối mọt, các buổi lễ được tổ chức trong phòng khánh tiết của “dinh Thống Đốc” cũ, về sau cải thành chủng viện Taberd, cho đến khi nhà thờ lớn xây xong

Ban đầu, địa điểm xây cất được đề nghị ở 3 nơi:

Trên nền Trường thi cũ (nay là góc đường Lê Duẩn và Hai Bà Trưng, tức vị trí tòa Lãnh sự Pháp).

Ở khu Kinh Lớn (tại vị trí nhà thờ cũ, nay thuộc đường Nguyễn Huệ).

Vị trí hiện nay..

Bên hông nhà thờ đức bà

Bên hông nhà thờ đức bà

Theo tài liệu, Nhà thờ đức Bà được thực hiện theo đồ án của kiến trúc sư J. Bourad. Nhà thờ được khởi công xây dựng từ năm 1877 và hoàn thành vào năm 1880. Trong đó, toàn bộ nhà thờ có chiều dài là 93m, rộng 35,5m và cao 57 m (tính từ mặt đất tới đỉnh tháp chuông) Sau khi đề án thiết kế được chọn, Đô đốc Duperré cho đấu thầu việc xây dựng thánh đường và cũng chính kiến trúc sư J. Bourad là người trúng thầu và trực tiếp giám sát công trình này. Mọi vật liệu từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang. Đặc biệt mặt ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille (Pháp) để trần, không tô trát, (đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi), không bám bụi rêu.

Ngày 7 tháng 10 năm 1877, Giám mục Isidore Colombert đặt viên đá đầu tiên trước mặt Phó soái Nam Kỳ và đông đủ nhân vật tai mắt thời ấy. Thánh đường được xây dựng trong 3 năm. Lễ Phục sinh, ngày 11 tháng 4 năm 1880, lễ cung hiến và khánh thành được cố đạo Colombert tổ chức trọng thể với sự có mặt của Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers. Hiện nay, trên bệ phía trên, bên trong cửa ra vào nhà thờ, có chiếc bảng cẩm thạch gắn trong hành lang (transept) ghi ngày khởi công, ngày khánh thành và tên vị công trình sư.

Tất cả mọi chi phí xây dựng, trang trí nội thất đều do Soái phủ Nam Kỳ đài thọ, với số tiền 2.500.000 franc Pháp theo tỷ giá thời bấy giờ. Ban đầu, thánh đường có tên gọi là Nhà thờ Nhà nước vì thánh đường do nhà nước Pháp bỏ tiền xây dựng và quản lý.

Năm 1895, nhà thờ xây thêm hai tháp chuông, mỗi tháp cao 57,6 m và hai tháp có 6 chuông đồng lớn nặng 28,85 tấn. Trên đỉnh tháp có đính một cây thánh giá cao 3,50 m, ngang 2 m, nặng 600 kg. Tổng thể chiều cao từ mặt đất lên đỉnh thánh giá là 60,50 m.

Tựong đồng giám mục Adran và hoàng tử Cảnh

Tựong đồng giám mục Adran và hoàng tử Cảnh

Trên vườn hoa trước nhà thờ, năm 1903, người Pháp cho dựng tượng đồng Pigneau de Béhaine (còn gọi là Giám mục Adran vì vị này làm Giám mục hiệu tòa Adran) dẫn hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long) để ca ngợi công lao của nước Pháp “bảo hộ”, “khai hóa” cho Việt Nam. Tượng đài này bao gồm một bệ bằng đá hoa cương đỏ hình trụ tròn và bên trên là bức tượng tạc hình đức cha Adran với phẩm phục giám mục, tay trái dẫn hoàng tử Cảnh. Tượng làm bằng đồng, được đúc tại Pháp, giới bình dân thời đó thường gọi là tượng “Hai hình” để phân biệt với tượng “Một hình”, là bức tượng của Đô đốc Hải quân Pháp Genouilly ở phía công trường Mê Linh (cuối đường Hai Bà Trưng, gần bờ sông Sài Gòn). Năm 1945, tượng này bị phá bỏ, nhưng cái bệ đài bằng đá hoa cương đỏ thì vẫn còn tồn tại ở đó mà không có bất cứ một bức tượng nào ở trên.

Năm 1959, Linh mục Giuse Phạm Văn Thiên (sau làm Giám mục giáo phận Phú Cường, nay đã qua đời), cai quản Giáo xứ Sài Gòn bấy giờ, đi dự đại hội Thánh Mẫu ở Vatican, đã đặt tạc một tượng Đức Mẹ Hòa Bình bằng loại đá cẩm thạch quý hiếm. Khi tượng từ Roma gửi sang Sài Gòn bằng đường thủy, Linh mục Giuse Phạm Văn Thiên đã làm lễ dựng tượng trên cái bệ đài vẫn còn để trống kể từ năm 1945 vào ngày 16 tháng 2 năm 1959 và dâng tước hiệu Nữ Vương Hòa Bình. Tự tay linh mục viết câu kinh cầu nguyện “Xin Đức Mẹ cho Việt Nam được hòa bình” rồi đọc trước đông đảo quan khách có mặt hôm ấy. Ngày hôm sau, Hồng y Aganianian từ Roma qua Sài Gòn để chủ toạ lễ bế mạc Đại hội Thánh Mẫu, đã làm phép bức tượng này vào buổi chiều ngày 17 tháng 2 năm 1959. Do bức tượng này mà từ đó Nhà thờ có tên gọi là Nhà thờ Đức Bà.

Ngày 05/12/1959, Tòa thánh Vatican đã cho phép làm lễ “xức dầu”, tôn phong Nhà thờ Chánh tòa Sài Gòn lên hàng Vương cung Thánh đường (basilique). Từ đó, tên gọi chính thức của thánh đường là Vương cung Thánh đường Chánh tòa Đức Bà Sài Gòn.

Năm 1960, Tòa thánh Vatican thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam với ba tòa Tổng Giám mục (tại Hà Nội, Huế và Sài Gòn), Nên Nhà thờ mang tên Nhà thờ Chánh tòa Sài Gòn. Năm 1962, Tòa thánh Vatican tôn phong Nhà thờ Chánh tòa Sài Gòn lên hàng Vương cung Thánh đường. Do đó tên gọi đầy đủ là Vương cung Thánh đường Chánh tòa Đức Bà Sài Gòn. Đây là nhà thờ Thiên chúa giáo lớn nhất và xưa nhất ở Việt Nam.

ducba 1

Mặt trước thánh đường là một công viên với bốn con đường giao nhau tạo thành hình thánh giá. Trung tâm của công viên là bức tượng Đức Mẹ Hòa bình (hay Nữ vương Hòa bình). Tượng do nhà điêu khắc G. Ciocchetti thực hiện năm 1959. Tên của tác giả được ở trên tà áo dưới chân, phía bên trái của bức tượng. Bức tượng cao 4,6 m, nặng 5,8 tấn, bằng đá cẩm thạch trắng của Ý, được tạc với chủ đích để nhìn từ xa nên không đánh bóng, vì vậy mà toàn thân tượng, kể cả vùng mặt vẫn còn những vết điêu khắc thô. Tượng Đức Mẹ trong tư thế đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu, trên trái địa cầu có đính cây thánh giá, mắt Đức Mẹ đăm chiêu nhìn lên trời như đang cầu nguyện cho Việt Nam và cho thế giới được hoà bình. Chân Đức Mẹ đạp đầu con rắn (mà hiện nay, đầu con rắn đã bị bể mất cái hàm trên). Trên bệ đá, phía trước bức tượng, người ta có gắn một tấm bảng đồng với hàng chữ Latinh:

REGINA PACIS – OPRA PRONOBIS – XVII. II. MCMLIX

Nghĩa là: “NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH – CẦU CHO CHÚNG TÔI – 17.02.1959”

Phía dưới bệ đá, người ta đã khoét một cái hốc chỗ giáp với chân tượng Đức Mẹ, trong đó có một chiếc hộp bằng bạc, chứa những lời kinh cầu nguyện cho hoà bình của Việt Nam và thế giới. Những lời cầu nguyện đó được viết lên trên những lá mỏng bằng những chất liệu khác nhau như bằng vàng, bạc, thiếc, nhôm, giấy, da và đồng, được gởi tới từ nhiều miền của Việt Nam, kể cả từ một số vùng ngoài miền Bắc.

Toàn bộ mặt ngoài nhà thờ được xây bằng loại gạch đặt tại Marseille (Pháp), không tô vữa và tới nay vẫn hồng tươi, làm toàn bộ công trình nổi bật trên nền cây xanh mát. Những kiếng màu trong nội thất với hoa văn độc đáo là do hãng Lorin của tỉnh Chartres (Pháp) sản xuất. Các ô cửa cuốn tròn kiểu Rôman cùng cung vòm gãy kiểu Gôtic gợi nhớ dạng thánh đường lớn ở Pari, Chartres, Reim. Riêng phần móng của nhà thờ được thiết kế chịu tải trọng gấp 10 lần toàn bộ kiến trúc ngôi nhà thờ nằm bên trên.

Điều đặc biệt là nhà thờ này không có vòng rào hoặc tường bao quanh như các nhà thờ khu vực Sài Gòn – Gia Ðịnh lúc ấy và bây giờ. Bên trong nhà thờ được thiết kế thành một lòng chính, hai lòng phụ tiếp đến là hai dãy nhà nguyện. Bàn thờ nơi Cung Thánh làm bằng đá cẩm thạch nguyên khối với sáu thiên thần (khắc thẳng vào khối đá) đỡ mặt bàn thờ. Bên cạnh đó, là bệ chia làm ba ô, mỗi ô là một tác phẩm điêu khắc diễn tả thánh tích. Mỗi nhà nguyện, mỗi ô cửa sổ hay mỗi khoang trên vòm mái đều là một tác phẩm nghệ thuật. Tất cả chan hòa trong ánh sáng êm dịu, tạo cảm giác an lành và thánh thiện.

Theo các chuyên viên văn hóa, tuy ngôi thánh đường không lớn, nhưng sức hấp dẫn được toát ra từ vẻ đẹp mẫu mực của kiến trúc Roman pha trộn nét Gôtich. Tất cả các đường nét, gờ chỉ, hoa văn trong nội thất cũng đều theo thức Roman và Gôtich làm đậm nét tôn nghiêm và trang nhã nơi thánh đường.

Nhà thờ đức bà đêm giáng sinh

Nhà thờ đức bà đêm giáng sinh


Ngoài ra, còn phải kể đến những cổ vật độc đáo, quý hiếm bên trong, đó là bộ 06 chuông nặng tổng cộng 25.850kg (lớn nhất Viễn Ðông thời đó), âm thanh phát ra là Sol, La, Si, Do, Ré, Mi. Vì nhà thờ có kiến trúc theo kiểu mẫu Notre Dame de Paris, nên hai gác chuông cũng cao ngang tầm nóc nhà thờ.

Trong đó, lầu chuông bên Nam (từ công viên nhìn vào là lầu chuông bên tay phải), được treo bốn quả chuông sol, đô, rê, mi. Lầu chuông bên Nữ (bên trái nhìn từ công viên) treo hai quả chuông la và si. Trên mặt mỗi quả chuông đều có các họa tiết rất tinh xảo. Trong đó chuông sol là một trong những quả chuông lớn nhất thế giới (nặng 8.785kg), đường kính miệng chuông 2,25m, cao 3,5m.

ducba 7

Đây là chuông mang âm trầm, với cường độ cực lớn, như giọng bass trong dàn hợp xướng, nó chỉ ngân lên mỗi năm một lần vào đêm Giáng sinh. Muốn đổ chuông sol cần ba đến bốn người khởi động cho chuông lắc gần tới độ cao ngang với giá treo rồi mới bật công tắc điện cho động cơ đánh tiếp.

Ngày lễ và chủ nhật, nhà thờ thường cho đổ ba chuông, ngày thường chỉ đổ một chuông mi hoặc rê vào lúc 5 giờ và 17g30. Dù thiếu chuông fa nhưng khi cả năm chuông cùng đổ sẽ tạo nên bản hòa tấu đủ cung bậc trầm bổng. Tiếng chuông ngân xa tới 10km theo đường chim bay.

Một cổ vật quí giá nữa là đồng hồ trước vòm mái, có chiều ngang 2m, cao 1m với bộ máy nặng trên 1.000 kg, đặt nằm trên bệ gạch giữa hai tháp chuông. Mặt kim đồng hồ hướng ra đường Catina (nay là đường đồng Khởi). Máy đồng hồ trông đơn giản, thô sơ nhưng chạy bền và đúng giờ, đổ chuông báo giờ rất chính xác. Riêng hệ thống chuông đồng hồ không còn hoạt động do dây cót quá cũ. Ðồng hồ này chào đời từ 1877, đến nay đã được 132 tuổi.

Ngày nay, Nhà thờ Đức Bà không chỉ là nơi hành lễ của những người công giáo, mà còn trở thành một hình ảnh thân quen của người dân Sài Gòn, là một điểm tham quan yêu thích của mỗi du khách đến với thành phố phương Nam quanh năm ngập tràn ánh nắng.

ducba 8

ducba 9

ducba 10

Các bài đã đăng :

*Nhà Thờ Phước Thiện

*Nhà Thờ Chánh Tòa Thái Bình

*Nhà Thờ Hòn Gai

*Nhà Thờ Làng Kênh Gà

*Nhà Thờ Núi

*Nhà Thờ Bùi Chu

*Nhà Thờ Phú Nhai

*Nhà Thờ Phủ Cam

*Nhà THờ Mằng Lăng

*Nhà THờ Hòa Hưng

 
 

Nhãn: , , , , , , , , , , , , , , , , , , ,

2 responses to “NHÀ THỜ ĐỨC BÀ – TP HCM

  1. nam nghiêm

    Tháng Sáu 22, 2010 at 10:16 chiều

    thuyngakhanhhoa cho hỏi , kiến trúc nhà thờ đức bà nói là kết hợp Roman và Gothic, Roman là phong cách chính rồi, còn Gothic mình không rõ ở chỗ nào ?

     

Bình luận về bài viết này